Với nông nghiệp, rắn là “người bảo vệ thầm lặng”, là thiên địch giúp kiểm soát tự nhiên các loài phá hoại mùa màng như chuột, côn trùng, chim chóc. Với môi trường, rắn là “cảm biến sinh học” phản ứng sớm với biến đổi thời tiết, thiên tai, ô nhiễm và góp phần bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ mai sau. Với văn hóa, văn minh lúa nước, rắn tượng trưng cho sự đổi mới và phát triển. Kết quả tốt đẹp, thành tựu vượt bậc, không đến từ sự an nhàn hay giữ nguyên theo cách cũ, mà đến từ sự “lột xác”, chủ động thay đổi, để đón nhận tương lai.
Rắn lột da để lớn lên. Con người thay đổi tư duy, hành động để thành công. Tổ chức, bộ máy sắp xếp lại để vận hành nhanh nhạy hơn, thông suốt hơn. Mục tiêu của việc hợp nhất hai Bộ, tổ chức lại các đơn vị bên trong, phân định chức năng nhiệm vụ hợp lý, khoa học, hướng đến sự tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Giá trị xanh, bền vững không còn là xu hướng. Giảm phát thải, tối ưu hóa quy trình sản xuất, hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường… không còn là khẩu hiệu, hay khuyến nghị cho tương lai, mà đã hiện diện trong mọi hoạt động của sản xuất, sinh hoạt hằng ngày.
Người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng, giá cả…, mà chú trọng cả về tổng thể quy trình sản xuất, cách thức sản phẩm nông nghiệp được tạo ra, về quá trình vận chuyển nông sản, từ cánh đồng, ao nuôi… đến bàn ăn, có bảo đảm các tiêu chuẩn về an toàn, thân thiện với môi trường? Và cả câu chuyện cảm xúc, độc đáo của chính người nông dân, của làng quê nông thôn, biết bảo vệ sức khỏe của bản thân, của cộng đồng, biết gìn giữ môi trường sống cho thế hệ mai sau.
Chính vì vậy, sự hợp lực của hai Ngành, sự gắn kết chức năng quản lý sản xuất và kinh tế nông nghiệp, phát triển nông thôn, với chức năng quản lý tổng hợp về tài nguyên và môi trường vừa thích ứng kịp thời với xu thế toàn cầu, vừa khởi tạo không gian giá trị mới theo xu hướng tuần hoàn và bền vững.
Từ góc độ kinh tế tuần hoàn, không gian giá trị mới cao hơn, bền vững hơn, mở ra cơ hội, dư địa phát triển cho ngành Nông nghiệp và Môi trường. Đi vào mô tả chi tiết, nông nghiệp tuần hoàn là “mô hình sản xuất nông nghiệp, trong đó tài nguyên như đất, nước, năng lượng, và chất thải được sử dụng hiệu quả và tái sử dụng liên tục. Mục tiêu là giảm thiểu chi phí, bảo vệ môi trường và tối ưu hóa năng suất. Trong mô hình này, chất thải nông nghiệp như phân bón, rơm rạ, hay phân động vật được tái chế hoặc tái sử dụng làm tài nguyên cho các hoạt động sản xuất tiếp theo, tạo ra một hệ sinh thái tự cung tự cấp và bền vững”.
Trong diễn giải về mô hình nông nghiệp tuần hoàn nêu trên, có những từ khóa đáng lưu ý như: “sản xuất nông nghiệp, tài nguyên, bảo vệ môi trường, tái chế chất thải nông nghiệp thành tài nguyên…”. Điều đó cho thấy, các chức năng quản lý nông nghiệp, điều hành sản xuất và chức năng quản lý tổng hợp về biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, trước đây được phân tách tương đối độc lập ở hai ngành khác nhau, thì giờ đây, đã nối kết lại trở thành một. Đúng là từ một trong hai (một việc có cả trong hai ngành), nay hợp nhất “hai là một”.
Những giá trị mới bắt đầu được hình thành từ sự hợp nhất này. Thay vì xử lý chất thải nông nghiệp tốn kém do phát sinh thêm chi phí, giờ được tái chế, tái sử dụng thành tài nguyên, tạo ra sản phẩm mới, nâng giá trị gia tăng cho sản xuất nông nghiệp và thương hiệu nông sản. Môi trường canh tác và sinh hoạt nhờ thế mà trở nên trong lành và an toàn hơn.
Trước đây, công tác quản lý tài nguyên dựa trên tài nguyên tái tạo được hay tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được, thì nông nghiệp tuần hoàn giờ đây có thể tạo ra những tài nguyên mới, với vòng đời mới, giá trị mới. Như vậy, tư duy kinh tế trong Nông nghiệp và Môi trường, một lần nữa, gắn kết với cách thức tiếp cận bao hàm các giá trị xanh, trách nhiệm, bền vững.
Chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế, chuyển từ tư duy kinh tế tuyến tính sang tư duy kinh tế tuần hoàn với mục tiêu nông nghiệp xanh, môi trường xanh trong nền kinh tế xanh. Tư duy kinh tế tuyến tính theo mô hình “Khai thác - Sản xuất - Tiêu dùng - Thải bỏ”, dẫn đến hậu quả là tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, rác thải gia tăng, môi trường ô nhiễm. Tư duy kinh tế tuần hoàn theo mô hình “Giảm thiểu - Tái sử dụng - Tái chế”, hay “Phụ phẩm của quy trình sản xuất này có thể trở thành nguyên liệu chính của quy trình sản xuất tiếp theo”, giúp giảm khai thác tài nguyên, giảm rác thải, tiết kiệm chi phí sản xuất, thúc đẩy sáng tạo, tối ưu hóa lợi nhuận ngắn hạn và lợi ích dài hạn.
Nói một cách giản đơn, tư duy tuyến tính có thể được hình dung như từng đoạn thẳng tăng trưởng, phân định rõ ràng điểm đầu (thường là khai thác), điểm cuối (thường là thải loại), mang tính thời điểm, tùy theo giai đoạn, lúc xuống lúc lên, khi thấp khi cao. Còn tư duy tuần hoàn có thể được hình dung như đường tròn kết nối xuyên suốt - kết quả của quy trình này là đầu vào của quy trình tiếp đến, như đường xoắn ốc phát triển tích hợp và tích lũy đa tầng giá trị.
Tư duy kinh tế tuần hoàn không chỉ là một chiến lược sản xuất nông nghiệp, mà còn là một triết lý quản lý tối ưu hóa tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Với mục tiêu giảm thiểu lãng phí và tối đa hóa giá trị các nguồn lực đa dạng, tư duy tuần hoàn không chỉ mang đến lợi ích kinh tế, đem lại thu nhập tăng thêm cho người nông dân, mà còn góp phần bảo vệ hệ sinh thái và xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại.
Điều này tương tự với các hệ sinh thái tự nhiên, nơi mà các nguồn lực được tuần hoàn và tái tạo mà không bị lãng phí. Các mô hình nông nghiệp tuần hoàn kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và các công nghệ xử lý chất thải để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Yếu tố tài nguyên và môi trường được kết hợp ngay trong từng đề án, chiến lược, nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực nông nghiệp.
Khi tư duy tuần hoàn trong quản trị ngành Nông nghiệp và Môi trường vận hành thông suốt, việc đề xuất cơ chế chính sách thúc đẩy kinh tế xanh sẽ thuận lợi và thuyết phục hơn. Các nghiên cứu khoa học nông nghiệp gắn với môi trường sẽ tạo ra sản phẩm nghiên cứu đồng bộ, đa mục tiêu. Các mô hình sản xuất nông nghiệp được đa dạng hóa, các yếu tố tác động môi trường được tính toán tổng thể, khuyến khích sự kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản. Tích hợp và nối kết dữ liệu viễn thám, khí tượng thủy văn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo sẽ giải quyết những vấn đề mùa vụ trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, lâm nghiệp và kiểm soát chất lượng rừng, đa dạng sinh học, tích hợp dữ liệu đa tầng cho lĩnh vực thủy lợi, phòng chống thiên tai, hạn hán và kiểm soát hạn mặn.
Trong ngành Nông nghiệp và Môi trường, tài nguyên đất đai, nước và năng lượng luôn có giới hạn, khó tái tạo. Tư duy “ít hơn để được nhiều hơn” - đầu vào tối thiểu, kết quả tối đa, hướng đến việc sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất, giảm thiểu lãng phí và khuyến khích tái sử dụng tài nguyên: tái sử dụng nước, phân bón từ chất thải nông nghiệp, hoặc năng lượng tái tạo từ sinh khối. Tư duy “ít hơn để được nhiều hơn” mở rộng không gian quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả, không chỉ quan tâm đến sản xuất, mà còn đảm bảo các nguồn lực và sản phẩm được sử dụng và tái sử dụng hiệu quả.
Quản trị ngành Nông nghiệp và Môi trường càng được cải tiến theo hướng toàn diện, mang tính hệ thống và gắn kết chặt chẽ. Bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên và đảm bảo an ninh lương thực cho thế hệ tương lai, trở thành mục tiêu nhất quán và xuyên suốt.
Đề án 1 triệu hec-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, giảm phát thải, gắn với tăng trưởng xanh, nông nghiệp tuần hoàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long là minh chứng sinh động cho sự gắn kết giữa Nông nghiệp và Môi trường. Ngành hàng lúa gạo dù tăng trưởng và phát triển thần kỳ, nhưng đã phát sinh nhiều hệ lụy: suy thoái môi trường đất, nước, không khí. Khi kết hợp mục tiêu sản xuất lúa với mục tiêu gìn giữ môi trường, ngành hàng lúa gạo, từ thâm dụng tài nguyên, đã chuyển sang cải thiện và tái tạo tài nguyên, bảo đảm chất lượng môi trường.
Kinh tế tuần hoàn trong ngành hàng lúa gạo sẽ tạo ra những giá trị mới từ rơm rạ, tạo ra ngành trồng nấm trên rơm rạ, vật liệu xây dựng, năng lượng từ rơm rạ... Một phần rơm rạ được băm và vùi trở lại ruộng đồng, tạo thành nguồn phân hữu cơ cho vụ mùa sau. Tất cả phụ phẩm của ngành hàng lúa gạo đều được sử dụng hiệu quả, sẽ không còn tình trạng đốt đồng gây phát thải, làm ô nhiễm môi trường.
Đơn ngành hẹp, tuần hoàn hẹp, giá trị thấp. Đa ngành rộng, tuần hoàn rộng, giá trị cao. Đa ngành, đa lĩnh vực, tuần hoàn, bền vững, giá trị vượt trội đến từ sự gắn kết chặt chẽ, cộng sinh giữa Nông nghiệp và Môi trường. Cuộc cách mạng về sắp xếp bộ máy sẽ dẫn đến cuộc cách mạng về tư duy quản trị hệ thống và hành động hệ thống trong ngành Nông nghiệp và Môi trường.
Cảm hứng phát triển nhờ hợp lực ngành Nông nghiệp và Môi trường cần được lan tỏa sâu rộng đến cộng đồng doanh nghiệp lĩnh vực nông nghiệp - môi trường, đến hợp tác xã, đến bà con nông dân, đến cộng đồng dân cư nông thôn. Xã hội cần đến những hợp tác xã đa dịch vụ nông nghiệp - môi trường lớn mạnh hơn, có chất lượng hoạt động tốt hơn. Xã hội cần đến những “cánh đồng lớn” - lớn về tư duy, lớn về tinh thần liên kết - hợp tác, không còn phân mảnh ruộng anh ruộng tôi, mà đồng đều về chất lượng, đồng lòng về cách nghĩ, cách làm, đồng thuận về yêu cầu, tiêu chuẩn, quy trình canh tác, không gây tác động xấu cho môi trường. Xã hội cần đến những sản phẩm nông nghiệp đại diện cho những người nông dân năng động, trách nhiệm, mạnh dạn thay đổi, biết làm giàu cho chính mình, biết nghĩ đến người xung quanh và con cháu mai sau.
Trước hết và trên hết, hợp lực Nông nghiệp và Môi trường xoay quanh mục tiêu cốt lõi: khơi thông cảm hứng phát triển liên ngành, liên lĩnh vực, cân bằng giữa bảo tồn và tăng trưởng, hài hòa tam giác bền vững kinh tế - xã hội - môi trường, cải thiện chất lượng sống từ nông thôn đến thành thị, giúp người nông dân ngày càng thịnh vượng hơn.
Ý kiến bạn đọc