Thứ năm, 02/10/2025, 18:24

Khuyến nông Nghệ An - 32 năm xây dựng và phát triển

Thứ ba - 30/09/2025 22:26 51 0
  Ngày 11/9/1993, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số 1862/QĐ.UB  thành lập Trung tâm Khoa học kỹ thuật và Khuyến nông Nghệ An, tiền thân của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ An hiện nay. Nhìn lại chặng đường 32 năm hình thành, xây dựng và phát triển, Mặc dù có nhiều sự thay đổi về mặt tổ chức, nhưng Trung tâm Khuyến nông Nghệ An luôn phát huy tinh thần tự lực, đoàn kết, cố gắng để đồng hành cùng với bà con nông dân, đồng hành với các ngành các cấp phục vụ Nông nghiệp trên địa bàn phấn đấu hoàn thành xuất sắc các mục tiêu nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi chung của ngành nông nghiệp tỉnh nhà.
Khuyến nông Nghệ An - 32 năm xây dựng và phát triển
1. Hệ thống tổ chức Khuyến nông Nghệ An không ngừng được củng cố và phát triển, tạo dựng được hệ thống mạng lưới khuyến nông đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.         
 - Ngày 11/9/1993, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số 1862/QĐ.UB  thành lập Trung tâm khuyến nông Nghệ An. Khuyến nông Nghệ An ra đời trên cơ sở bổ sung nhiệm vụ cho Trung tâm KHKT Nông nghiệp và đổi tên thành Trung tâm KHKT và Khuyến nông.
- Ngày 20/7/1995, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số 2203/QĐ.UB về việc thành lập Trạm Khuyến nông cấp huyện, trực thuộc UBND huyện.
- Ngày 15/10/1998, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số 3771/QĐ.UB về việc sáp nhập 2 Trung tâm: KHKT và Khuyến nông với Trung tâm KHKT và Khuyến lâm, đổi tên thành Trung tâm KHKT và Khuyến nông, Khuyến lâm.
- Ngày 9/4/2001, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 994/QĐ-UB về việc tách bộ phận KHKT nhập về Trung tâm giống cây trồng và Trung tâm Khuyến nông - Khuyến lâm.
- Ngày 25/9/2001, UBND tỉnh ban hành các Quyết định số 49/2001/QĐ.UB, về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống khuyến nông tỉnh Nghệ An.
- Ngày 21/01/2009, UBND tỉnh Nghệ An có Quyết định 303/QĐ.UBND  về việc tổ chức lại, qui định chức năng nhiệm vụ  và cơ cấu tổ chức bộ máy Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư gồm: Hợp nhất Trung tâm Khuyến nông - Khuyến lâm với Trung tâm Khuyến ngư và chuyển 20 Trạm khuyến nông trực thuộc UBND các huyện/Thành phố/Thị xã về trực thuộc Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư.
- Ngày 30/12/2011, UBND tỉnh ban hành  Quyết định số 5918/QĐ.UBND về việc "Đổi tên và qui định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ An".
- Ngày 25/11/2020, UBND tỉnh ban hành  Quyết định số 4237/QĐ.UBND của UBND tỉnh Nghệ An về Qui định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ An.
- Thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, UBND tỉnh Nghệ An đã có Quyết định số 1859/QĐ-UBND ngày 26/6/2025 về việc chuyển giao các Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện, thành phố, thị xã về Trung tâm Khuyến nông thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An và đổi thành các Trạm Dịch vụ nông nghiệp vùng trực thuộc.
Có thể nói để có được một Trung tâm khuyến nông với vai trò, chức năng nhiệm vụ và vị thế như ngày hôm nay, Khuyến nông đã phải trải qua một quá trình chia tách, sáp nhập, có lúc đến gay gắt, đặc biệt là việc thực hiện tinh giản biên chế theo tinh thần Chỉ thị 05/CT.TU ngày 20/7/2001 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc củng cố, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động khuyến nông:
- Tính đến trước thời điểm năm 2020 hệ thống tổ chức mạng lưới Khuyến nông Nghệ An đã cơ bản hoàn thiện với 3 cấp gồm: Khuyến nông cấp tỉnh; Khuyến nông cấp huyện và Khuyến nông cấp cơ sở (xã và thôn bản).
Trong đó:
 + Khuyến nông cấp tỉnh (thuộc Khuyến nông Nhà nước): 46 người, trong đó có 44 người trong biên chế và 2 người thuộc diện thu hút).
+ Khuyến nông cấp huyện (thuộc Khuyến nông Nhà nước): 131 người (118 người trong biên chế, 10 người thuộc diện thu hút và 3 tự trang trải).
+ Khuyến nông cấp cơ sở (khuyến nông cấp xã và khuyến nông thôn, bản) có 5.571 người. Trong đó: Khuyến nông xã là 467 người và khuyến nông viên thôn, bản là 5.104 người.
- Tuy nhiên, sau khi có quyết định số 5301/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh ban hành về việc chuyển giao Trạm trồng trọt và bảo vệ thực vật, Trạm chăn nuôi và thú y, Trạm Khuyến nông và Ban phát triển nông thôn miền núi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về UBND cấp huyện quản lý để thành lập các Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện/Thành phố/Thị xã. Do đó, từ năm 2020 đến tháng 7/2025, hệ thống khuyến nông Nhà nước chính thống chỉ còn lại Trung tâm khuyến nông tỉnh với 42 biên chế.
- Thực hiện Quyết định số 1859/QĐ-UBND ngày 26/6/2025 của UBND tỉnh Chuyển giao các Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp thuộc UBND các huyện, thành phố, thị xã về Trung tâm Khuyến nông thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An; từ ngày 01/7/2025 Trung tâm Khuyến nông gồm 4 phòng chức năng và 20 Trạm Dịch vụ nông nghiệp vùng, được UBND tỉnh giao chỉ tiêu 336 biên chế và số lượng người làm việc hiện tại là 302 người.
Như vậy, sau 32 năm thành lập hệ thống khuyến nông tỉnh Nghệ An có nhiều biến động về tổ chức nhưng không ngừng được củng cố, hoàn thiện và điều chỉnh. Đặc biệt chất lượng đội ngũ cán bộ khuyến nông ngày càng được nâng cao cả về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, đáp ứng tốt những yêu cầu nhiệm vụ khuyến nông đặt ra theo từng giai đoạn và hiện nay.
2. Hoạt động khuyến nông ngày càng đa dạng về nội dung và phương pháp; góp phần chuyển giao nhanh các chủ trương chính sách, các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; từng bước chăm lo bồi dưỡng, nâng cao năng lực, kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ khuyến nông các cấp và nông dân nhằm đáp ứng nhu cầu tốt hơn về công tác khuyến nông phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động công tác khuyến nông xuyên suốt 32 năm qua là xây dựng các mô hình trình diễn và chuyển giao tiến bộ KHKT thông qua các hoạt động tuyên truyền, tập huấn và đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn. Cụ thể là:
- Về hoạt động xây dựng mô hình: Trung bình mỗi năm Trung tâm Khuyến nông xây dựng từ 25-30 dạng mô hình trình diễn (Trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản) để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân bằng các tiến bộ kỹ thuật mới, các giống cây trồng vật nuôi mới với quy mô trên 6.000 ha đất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; hơn 180 nghìn con gia súc, gia cầm, giống thuỷ sản các loại,... cho 33.680 hộ dân tham gia. Việc ứng dụng chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật thông qua xây dựng mô hình đã góp phần làm tăng nhanh năng suất, sản lượng và chất lượng các loại cây trồng, vật nuôi và giá trị sản phẩm trên một diện tích, thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, qua đánh giá thực tế cho thấy, số mô hình được nhân rộng đạt tỷ lệ 78,1%. Điển hình một số mô hình nổi bật như: Mô hình sản xuất và thâm canh các giống lúa chất lượng cao Japonica, NA6, NA9, TBR225,...; Mô hình sản xuất các loại rau, nấm ăn theo VietGAP; Mô hình trồng các loài hoa cao cấp: Hoa Tuy Líp, hoa Lily, Mô hình thâm canh cam theo hướng GAP, theo tiêu chuẩn VietGAP; Mô hình trồng dược liệu dây thìa canh theo chuỗi giá trị, Mô hình thâm canh cam theo hướng GAP; Mô hình chăn nuôi bò thịt, bò sinh sản gắn với trồng cỏ; Chăn nuôi lợn thịt, gà sinh sản, gà thịt an toàn sinh học có sử dụng đệm lót sinh học; Mô hình nuôi dê sinh sản; Mô hình nuôi vịt siêu thịt; Mô hình nuôi các loại đặc sản như nuôi gà đen thương phẩm, nuôi lợn đen, nuôi Dúi sinh sản; Mô hình Nuôi tôm thẻ, cá rô phi theo hướng VietGAP; Nuôi cá trắm giòn, chép giòn; Nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa; Mô hình ứng dụng máy dò ngang trong khai thác hải sản xa bờ, Mô hình ứng dụng công nghệ chiếu sáng bằng đèn LED để khai thác hải sản xa bờ cho tàu chụp 4 tăng gông kết hợp ánh sáng, Chăn nuôi gà theo tiêu chuẩn VietGAP gắn với Blockchain ...vv.
Đối với chương trình xây dựng nông thôn mới: Đã phối hợp với UBND các xã xây dựng 55 mô hình, tạo điều kiện cho hàng ngàn hộ dân tham gia tiếp cận tiến bộ KHKT mới, giúp nông dân thay đổi nếp nghĩ, cách làm để tổ chức sản xuất nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Đặc biệt từ nguồn kinh phí theo Nghị Định 35/2015/NĐ-CP về quản lý, sử dụng đất lúa và Nghị định 62/2019/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 35/NĐ-CP, Trung tâm đã phối hợp với các huyện/Thành phố, Thị xã thực hiện 311 dạng mô hình, quy mô hơn 10.000 ha, gần 15.000 hộ tham gia với nhiều loại cây trồng vật nuôi phù hợp trên đất lúa để tăng hiệu quả kinh tế, thu nhập, cải thiện đời sống nông dân.
- Về thông tin tuyên truyền: Xây dựng và phát sóng 829 trang phóng sự, chuyên đề trên đài Truyền hình, truyền thanh tỉnh, 48 trang nhịp cầu nhà nông, 390 trang khuyến nông và 126 trang điện tử trên báo Nghệ An, In ấn 143.639 tập san Thông tin Khuyến nông, 66 vạn tờ gấp kỹ thuật, tổ chức hàng chục cuộc diễn đàn, hàng trăm cuộc hội thảo, tham quan học tập kinh nghiệm để chuyển giao chủ trương, chính sách về nông nghiệp, các tiến bộ kỹ thuật mới, các điển hình tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp ở khắp mọi miền đến với người nông dân.
- Về tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khuyến nông và nông dân: Tổ chức được 15.989 lớp với 892.513 lượt cán bộ khuyến nông các cấp và nông dân tham gia. Đặc biệt, từ năm 2020 - 2022 đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ khuyến nông thôn bản được thay bằng cán bộ chủ chốt thôn/xóm/bản với 469 lớp, 20.687 lượt người tham gia; Phối hợp với Hội Nông dân, Hội làm vườn, Hội kinh tế trang trại, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, các Tổng đội Thanh niên xung phong, .... tổ chức 268 lớp, với 13.400 lượt hội viên, đoàn viên thanh niên tham gia. Ngoài ra, khuyến nông còn thu hút sự hỗ trợ từ nguồn kinh phí khác (nguồn từ huyện, các chương trình, dự án, doanh nghiệp, Nghị định 35/CP,...) tổ chức 1.079 lớp tập huấn cho 50.449 nông dân.
  - Về đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn: Trung tâm khuyến nông Nghệ An là tỉnh đầu tiên trong cả nước thuộc hệ thống khuyến nông được giao nhiệm vụ và cấp phép đủ điều kiện dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn với 19 nghề đào tạo thuộc các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản và lâm nghiệp theo Quyết định 1956/CP của Thủ tướng Chính phủ từ năm 2011. Tính đến cuối năm 2019, đã tổ chức được 188 lớp, 5.931 học viên tham gia, số học viên được cấp chứng chỉ nghề là 5.451 học viên đạt 91,9%; trong đó có khoảng 85 - 90% học viên áp dụng đư­ợc ngay kiến thức lý thuyết và thực hành vào thực tế sản xuất; khoảng 70 - 80% học viên sau học nghề đã áp dụng ngay chính nghề đ­ược học và cho hiệu quả kinh tế.
- Về tư vấn dịch vụ nông nghiệp: Bằng hình thức trực tiếp hoặc điện thoại đã tư vấn cho hàng ngàn lượt nông dân về xây dựng dự án, tư vấn kỹ thuật, phương pháp triển khai xây dựng mô hình, giới thiệu các địa chỉ cung ứng sản phẩm đầu vào và đầu ra.… Đặc biệt là tư vấn cho các xã, ban chỉ đạo nông thôn mới cấp huyện, xã trong xây dựng mô hình phát triển sản xuất với 494 mô hình thuộc nguồn mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đối với dịch vụ khuyến nông, đã phối hợp với các đơn vị, các công ty thực hiện 45 mô hình, tổ chức 26 cuộc hội thảo về chuyển giao nhân rộng các tiến bộ kỹ thuật như sử dụng phân bón đạm Phú mỹ, NPK Lâm Thao cho cây lúa, cây ngô; giống lúa mới ADI 28, ADI 30; giống lúa QR1, DQ11, TBR 225, Bắc Thịnh, Bắc Xuyên; phân bón sinh học Bioplan, Lactofol,…vv.
3. Tham gia quản lý Nhà nước về khuyến nông, thực hiện tốt các nhiệm vụ thuộc các chương trình mục tiêu Quốc gia do UBND tỉnh, sở Nông nghiệp và PTNT, UBND các huyện và cơ sở giao phó.
- Trung tâm Khuyến nông và mạng lưới khuyến nông cơ sở luôn thực hiện tốt các nhiệm vụ giúp cho sở Nông nghiệp và PTNT, UBND huyện và cơ sở thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn. Thường xuyên tham mưu kịp thời, có hiệu quả, tham gia tích cực, có trách nhiệm giúp Sở Nông nhiệp và PTNT, UBND các huyện và cơ sở trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, tham mưu xây dựng phương án và tổ chức thực hiện sản xuất, phòng trừ dịch bệnh, phòng chống thiên tai và giảm thiểu các tác động do Biến đổi khí hậu... Đặc biệt hỗ trợ phòng chống dịch tả lợn Châu phi, dịch bệnh trên cây lúa, ngô, rau màu…
- Đối với chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới: Khuyến nông đã tích cực phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các địa phương tham gia các hoạt động cùng với cơ sở để góp phần hoàn thành các tiêu chí xây dựng các xã nông thôn mới (nhất là chỉ tiêu số 10 về thu nhập và tiêu chí số 11 về tỉ lệ hộ nghèo, tiêu chí số 12 về cơ cấu lao động nông thôn) bằng nhiều hình thức như xây dựng hàng chục mô hình trình diễn, phối hợp với các đơn vị, doanh nghiệp chuyển giao nhanh tiến bộ kỹ thuật mới xuống các địa phương nhằm nhân rộng, nâng cao hiệu quả sản xuất các loại cây trồng vật nuôi chủ lực, tổ chức tập huấn, đào tạo nghề nông nghiệp để nâng cao năng lực cho cán bộ và nông dân trong việc tổ chức sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng nông nghiệp. Hỗ trợ, nâng cao năng lực các Tổ Khuyến nông cộng đồng.
- Thực hiện tiểu dự án chương trình quốc gia giảm nghèo bền vững: dự án chăn nuôi bê cái lai Sind tại xã Thái Sơn huyện Đô Lương với 22 con bê cái lai Sind cho 22 hộ; dự án chăn nuôi vịt bầu Quỳ tại xã Phú Thành huyện Yên Thành với 4.420 con vịt bầu/26 hộ. Tiểu dự án đã tạo điều kiện các hộ tham gia dự án có vốn để phát triển chăn nuôi, tạo việc làm và tăng thu nhập ổn định lâu dài, góp phần xoá đói giảm nghèo bền vững.
4. Phối hợp thực hiện và tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức xã hội, tổ chức Quốc tế để phát triển, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động công tác khuyến nông.
Cùng với việc sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn tài chính do Ngân sách Nhà nước cấp, Khuyến nông Nghệ An đã tiếp cận và tranh thủ khai thác các nguồn kinh phí từ các chương trình, dự án của các tổ chức trong nước và Quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động công tác khuyến nông. Một số chương trình dự án nổi bật đó là:
 - Dự án chư­ơng trình Hỗ trợ phát triển ngành chăn nuôi ở một số tỉnh Việt nam từ 2003 - 2020. Tính đến nay, dự án đã đầu t­ư trên 10 tỷ đồng hỗ trợ hộ nông dân xây dựng 8.981 công trình Khí sinh học (hầm Biogas). 
- Dự án "Đào tạo và khuyến nông dựa vào cộng đồng" với kinh phí 90.000 USD từ nguồn hỗ trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật bản cho 4 huyện thuộc 2 tỉnh Thanh hóa và Nghệ An từ năm 2007- 2009. Tại Nghệ An 2 huyện đ­ược tham gia đó là Quế phong và Quỳ hợp. 
- Ch­ương trình hỗ trợ phát triển ngành  Nông nghiệp (ASDP) vốn vay của Ngân hàng phát triển Châu á năm 2006-2007, Trung tâm KNKL đ­ược hỗ trợ kinh phí hoạt động của Hội đồng t­ư vấn khuyến nông, cung cấp thiết bị và đào tạo nâng cao năng lực cán bộ khuyến nông. Đặc biệt hỗ trợ kinh phí thay thế Ngân sách tỉnh chi trả cho 469 cán bộ khuyến nông xã hoạt động trong 2 năm mức chi trả cho một cán bộ khuyến nông xã là 300.000 đồng/tháng/người.
- Dự án hợp phần: Nâng cao năng lực hoạt động khuyến nông cơ sở của dự án KHCN Nông nghiệp, vốn vay ADB với mức đầu tư  trên  2 triệu USD, tương ứng 42 tỷ đồng  hoạt động trong 6 năm từ 2007-2012. Dự án đã triển khai 133 hợp đồng xây dựng các mô hình khuyến nông cho hộ nghèo tại 19 xã nghèo thuộc 12 huyện trong tỉnh với 5.764 hộ nghèo tham gia; Cung cấp các thiết bị phục vụ công tác tập huấn , thông tin truyền thông cho tất cả 20 Trạm khuyến nông của tỉnh; tổ chức 17 lớp tập huấn cho đội ngũ cỏn bộ khuyến nông cấp tỉnh, cấp huyện với 405 lượt người tham gia và 383 lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ khuyến nông xã và thôn bản với 9.504 lượt người tham gia.
- Dự án “Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI)”, Dự án “Nông nghiệp thông minh thích nghi với biến đổi khí hậu” từ năm 2010 - 2013 do tổ chức Oxfam tại Việt Nam tài trợ. Qua chương trình này đã nâng cao năng lực về nhận thức và phương pháp, kỹ năng làm việc cho đội ngũ cán bộ khuyến nông và kỹ năng sản xuất nông nghiệp bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu cho nông dân.   
- Dự án Enrich do tổ chức Hợp tác phát triển Hà Lan tài trợ từ năm 2015 - 2017, kinh phí 513 triệu đồng.
- Dự án khuyến nông Quốc gia: Mô hình áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo kết hợp với thú y cộng đồng năm 2015-2026, kinh phí 603 triệu đồng.
- Dự án phục hồi và quản lý rừng phòng hộ Jica từ năm 2015 - 2018, kinh phí 6.564 triệu đồng.
- Dự án khuyến nông Quốc gia Cam, Bưởi từ năm 2017 - 2019, kinh phí 5.898 triệu đồng.
- Chương trình khuyến nông người nghèo giai đoạn 2016-2020, kinh phí 2.800 triệu đồng bằng những mô hình chăn nuôi trâu, bò kết hợp trồng cỏ, nuôi dê sinh sản nhằm giúp các hộ nghèo có nguồn vốn ban đầu để xây dựng, phát triển và nhân rộng mô hình; Giải quyết một phần công lao động nhàn rỗi, tạo công ăn việc làm, từng bước biết áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, góp phần tăng thu nhập tiến tới thoát nghèo bền vững.
- Dự án XDMH mẫu sản xuất chè hữu cơ, liên kết theo chuỗi giá trị tại tỉnh Nghệ An 2022-2024.
- Dự án Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn thịt chứng nhận VietGAHP gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm giai đoạn 2025-2027, quy mô 1.000 con tại 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Ngoài ra, những năm qua Trung tâm Khuyến nông Nghệ An còn tranh thủ sự giúp đỡ của Viện lân kaki Châu Á - Thái Bình Dương, Tổ chức Bánh mỳ Thế giới; Ngân hàng thế giới (WB1) hỗ trợ kinh phí thực hiện chương trình bón phân hợp lý, trồng cây ăn quả gắn với canh tác bền vững bảo vệ môi trường, đào tạo nâng cao năng lực, đầu t­ư xây dựng nhà làm việc và cung cấp thiêt bị mới cho 5 Trạm khuyến nông gồm Trụ sở làm việc của Trạm Khuyến nông huyện Nam đàn, huyện Hưng nguyên, huyện Nghi lộc, Thị xã Cửa lò và Thành phố Vinh,...
5. Hiệu quả tác động đem lại từ hoạt động khuyến nông
Mặc dù đầu tư Ngân sách Nhà nước cho khuyến nông gần 32 năm qua tuy không lớn nhưng từ kết quả hoạt động khuyến nông đạt được đã tác động tích cực đến sản xuất, góp phần vào thành tích chung của ngành nông nghiệp và PTNT tỉnh nhà. Đó là:
- Từng bước nâng cao năng lực, nghiệp vụ đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến nông các cấp, đáp ứng cơ bản nguồn nhân lực chất lượng, giàu kinh nghiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ chuyển giao tiến bộ KHKT cho nông dân, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, tiếp sức hoàn thành mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững và chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Góp phần tăng nhanh năng suất và sản lư­ợng l­ương thực, đưa sản lượng lương thực cây có hạt của tỉnh từ 480 ngàn tấn năm 1993 lên 1,23 triệu tấn năm 2024 (tăng gấp hơn 2,52 lần); Thúc đẩy liên kết chuỗi trong sản xuất nông nghiệp với một số sản phẩm có lợi thế như lúa, lạc, ngô, chè, mía, ..; Chuyển giao nhanh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, quy trình tiên tiến và cơ giới hoá vào sản xuất. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, mùa vụ để nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng và phát triển các vùng sản xuất cây công nghiệp hàng năm, lâu năm, cây ăn quả để cung cấp cho thị trường trong nước, xuất khẩu và nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Đẩy mạnh sản xuất lâm nghiệp, chuyển biến mạnh về chất, đảm bảo môi trường sinh thái và dân sinh kinh tế, phát triển bền vững, hiệu quả, tăng nhanh độ che phủ rừng từ 43% năm 2002 lên 59,16% đầu năm 2025.
- Nâng cao được năng lực, kiến thức cho người chăn nuôi, duy trì tăng trưởng ngành chăn nuôi đạt 4-5%/năm, góp phần thực hiện tái cơ cấu chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, từng bước chuyển chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại, tập trung công nghiệp, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất hàng hoá theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến và thị trường tiêu thụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi.
- Chuyển giao nhanh các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất thuỷ hải sản, nâng cao được năng lực, năng suất, sản lượng, hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, khai thác nguồn lợi hải sản; nhiều đối tượng nuôi thuỷ sản đã được đưa vào áp dụng như: tôm, cua, cá vược, cá bống bớp, baba, lươn, cá diêu hồng, cá rô phi, cá lóc... với đa dạng hình thức nuôi ở vùng mặn lợ, vùng nước ngọt, trong bể xi măng, bể lót bạt, trên ruộng,... đã tác động tăng nhanh năng suất, sản lượng thuỷ sản. Năm 2010 mới chỉ đạt mức sản lượng 37.950 tấn đến năm 2024 đạt 287.500 tấn, tăng trên 7,13 lần.
6. Thành tích đạt được:
Có thể nói, hoạt động Khuyến nông 32 năm qua đã đạt được nhiều thành tích đáng kể và đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An. Từ những kết quả, thành tích đáng ghi nhận, Trung tâm Khuyến nông Nghệ An đã được các cấp các ngành như được Bộ Nông nghiệp & PTNT, UBND tỉnh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động tỉnh tặng nhiều Bằng khen cho tập thể và cá nhân. Riêng năm 2009 Trung tâm Khuyến nông Nghệ An và Giám đốc đã được Chính phủ tặng Huân ch­ương lao động Hạng 3; UBND tỉnh tăng cờ thi đua xuất sắc năm 2012; Chi bộ Trung tâm Khuyến nông thường xuyên đạt Chi bộ "Cơ sở đảng trong sạch vững mạnh", đặc biệt từ năm 2003 - 2012, 10 năm liên tục đạt Chi bộ "Cơ sở đảng trong sạch vững mạnh" được Ban Thường vụ Thành uỷ Thành phố Vinh công nhận "Cơ sở đảng trong sạch vững mạnh", Bí thư Chi bộ được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tặng Bằng khen. Năm 2016 đạt Chi bộ "Cơ sở đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu"; Tổ chức Công đoàn cơ sở thường xuyên hàng năm xếp loại vững mạnh xuất sắc, Chi đoàn Thanh niên xếp loại xuất sắc; Đảng bộ bộ phận Trung tâm Khuyến nông được BCH tỉnh Đảng bộ Nghệ An tặng Bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 31/10/2012…
7. Tồn tại và hạn chế.
Thành tích hoạt động của Khuyến nông 32 năm qua thật là ý nghĩa, đáng ghi nhận và tôn vinh. Tuy nhiên, đứng trước những yêu cầu về phát triển nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hội nhập hiện nay, hoạt động khuyến nông cần phải tiếp tục không ngừng đổi mới cả về tư duy lẫn phương pháp tiếp cận để nâng cao hiệu quả hoạt động hơn nữa, sớm hoàn thiện và khắc phục các hạn chế sau:
- Do tồn tại của lịch sử nên đội ngũ cán bộ vẫn còn những hạn chế về năng lực, tư duy, có lúc chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất trong thời kỳ hội nhập. Đặc biệt là Nghị quyết 19, Hội nghị Trung ương VI khoá XII về việc sắp xếp tổ chức lại tổ chức bộ máy, trong đó có sự thay đổi hệ thống tổ chức khuyến nông, nên phần nào đã ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức, nội dung, hiệu quả và chất lượng công tác khuyến nông. 
- Hoạt động khuyến nông chưa có tính đột phá nhiều, còn đơn điệu ch­ưa đáp ứng được các nhu cầu của các đối t­ượng nông dân khác nhau. Nội dung khuyến nông giữa xây dựng mô hình gắn với tham quan, hội thảo tuyên truyền để nhân rộng mô hình chưa cân đối, thích hợp. Các mô hình cơ bản còn nhỏ lẻ, chưa có nhiều mô hình tập trung, quy mô lớn, đầu tư còn dàn trải, phần lớn mới chỉ hỗ trợ giống và một phần vật tư với quy mô nhỏ nên còn khó khăn trong việc phát triển thành vùng nguyên liệu, hàng hoá, liên kết chuối giá trị bền vững.. Mặt khác mô hình mới chú trọng đến khuyến nông sản xuất chủ yếu như mô hình về trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp,... còn các lĩnh vực khuyến nông về quản lý, phát triển ngành nghề, chế biến, liên kết chuỗi tiêu thụ sản phẩm và thị trường, khuyến nông công nghệ cao, hữu cơ...  còn hạn chế và có lĩnh vực chưa đủ năng lực để thực hiện.
- Công tác thông tin tuyên truyền chưa thực sự đa dạng, phong phú; Tập huấn, đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn chưa có sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp, còn nặng về lý thuyết, thời lượng dành cho thực hành, tham quan thực tế, rèn luyện kỹ năng tay nghề hoặc gắn đào tạo, tập huấn với mô hình trình diễn khuyến nông, mô hình sản xuất có hiệu quả... chưa nhiều nên hiệu quả tác động lan toả thực sự chưa cao.
8. Nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.
Nghị quyết 19 NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có chỉ ra nhiệm vụ, giải pháp: Phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng; Tạo đột phá trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; đào tạo nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt là thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Để hệ thống khuyến nông Nghệ An đủ năng lực hoạt động, góp phần thực hiện Đề án tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh Nghệ An, gắn với xây dựng nông thôn mới. Trong đó tập trung cho các hoạt động khuyến nông theo hướng phát triển “khuyến nông dịch vụ”, “khuyến nông thị trường”, “khuyến nông theo nhu cầu”, “khuyến nông có sự tham gia”, “khuyến nông đa giá trị”, “khuyến nông chuỗi ngành hàng” và chuyển đổi số…, tiếp tục xã hội hoá công tác khuyến nông nhằm phát huy mọi nguồn lực, vừa nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp vừa đảm bảo sinh kế cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, khu vực khó khăn. Nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống khuyến nông Nghệ An trong thời gian tới là:
- Củng cố và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác Khuyến nông, Tổ khuyến nông cộng đồng, cán bộ nòng cốt cơ sở, thành viên hợp tác xã, chủ trang trại, gia trại, người sản xuất và bà con nông dân về kiến thức kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, trình độ quản lý, thị trường, chuyển đổi số, kỹ năng khuyến nông… đáp ứng yêu cầu thực tiễn về công tác chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng nông sản, nâng cao giá trị sản xuất;
- Công tác khuyến nông phải gắn liền với quá trình chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, trên cơ sở tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công nghệ chuyển đổi số, các quy trình sản xuất theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn, sản xuất đa giá trị… gắn với chuyển đổi mô hình quản lý từ kinh tế hộ sang kinh tế hợp tác, lấy tổ hợp tác và hợp tác xã làm nòng cốt, liên kết với doanh nghiệp để hình thành chuỗi giá trị bền vững. Đồng thời tạo sinh kế cho người dân, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và thiên tai, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
- Đẩy mạnh xã hội hóa khuyến nông, kết hợp giữa khuyến nông nhà nước với khuyến nông doanh nghiệp, khuyến nông cộng đồng, khuyến nông xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng tăng của sản xuất, thị trường, hướng tới các mục tiêu phát triển cộng đồng, phát triển bền vững.
Như vậy, nhìn lại chặng đường 32 năm qua, được sự quan tâm giúp đỡ của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và các ngành các cấp, các địa phương. Khuyến nông Nghệ An đã có những bước tiến vượt bậc, tạo dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu công tác và góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh nhà. Trong tình hình mới, nhiệm vụ của công tác khuyến nông phải được đổi mới toàn diện theo hướng đa dạng, chất lượng và hiệu quả hơn để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về công tác khuyến nông phục vụ sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt phương châm “ở đâu có nông dân, ở đó có khuyến nông”./.
Nguyễn Hồng Giang - Trung tâm KNNA

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thư viện ảnh
hh2-3.jpg hh7-10.jpg hh5-20.jpg hh8-3.jpg hh6-11.jpg hh1.jpg hh10.jpg hh01.jpg hh05.jpg hh2-3.jpg hh02.jpg hh07.jpg hh03.jpg hh04.jpg hh2-3.jpg
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây