Mặt trận nông nghiệp Nghệ An phục vụ kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những dấu ấn lịch sử trong kỷ nguyên mới
Thứ sáu - 22/08/2025 00:03120
Trong bản hùng ca kháng chiến chống Mỹ cứu quốc trên quê hương Nghệ An - một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, mặt trận Nông nghiệp tự hào đi lên từ khói lửa, đạn bom dưới sự lãnh đạo, dẫn đường sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã gặt hái những thành tựu và ngày càng phát triển.
Mặt trận nông nghiệp phục vụ kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khôi phục sau chiến tranh và đổi mới Trong kháng chiến chống Mỹ, với tinh thần cùng nông dân bám đất, bám đồng, tự lực tự cường vừa sản xuất, vừa chiến đấu, ngành Nông nghiệp tỉnh Nghệ An đã có nhiều đóng góp cho chiến trường giải phóng miền Nam. Sau hòa bình thống nhất đất nước, ngày 27/12/1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định hợp nhất 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Tỉnh lúc này có những tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế nông nghiệp nhưng cũng đan xen nhiều khó khăn, thách thức: diện tích lớn tài nguyên đất đai, rừng, biển phong phú, dân số đông và lao động dồi dào, cần cù, giàu lòng yêu nước và cách mạng nhưng dân cư phân bố không đồng đều, quá thưa thớt ở các huyện miền núi; thiệt hại nặng nề sau chiến tranh làm cho cơ sở vật chất thiếu thốn, nhân dân đói nghèo; khí hậu khắc nghiệt, hạn hán kéo dài cộng thêm mưa lũ gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất nông nghiệp… Vấn đề về lương thực trở nên vô cùng khó khăn và cấp bách. Nghị quyết số 19 ngày 17/7/1977 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tập trung ý chí, năng lực, nguồn lực phấn đấu vượt qua khó khăn, chống hạn làm mùa, phát triển sản xuất và xây dựng, giữ vững và ổn định đời sống nhân dân. Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, phân vùng kinh tế được bố trí hợp lý, khắp nơi nhân dân thi đua khai hoang phục hóa, đẩy mạnh sản xuất lương thực cùng các loại hoa màu vụ đông, vụ thu. Trong hai năm (1977 – 1978) đã khai hoang, phục hóa gần 60.000 ha, bằng 2/3 kế hoạch dự kiến của giai đoạn 1976 – 1980, trồng rừng trên 20.000 ha. Tháng 12 năm 1986, tỉnh bước vào công cuộc đổi mới bằng ba chương trình kinh tế lớn “sản xuất lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu” trong bối cảnh bất lợi: thời tiết rét đậm kéo dài, bão lụt gây thiệt hại lớn, lạm phát cao; cơ chế khoán theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khóa IV) đã phát sinh những điểm bất cập; bộ máy quản lý hợp tác xã kém hiệu quả, đời sống nhân dân khó khăn. Do đó giai đoạn từ năm 1986 – 1990 tốc độ tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh không ổn định (năm 1988 là 10,8%; năm 1989 là 1%; năm 1990 là 2,8%), mức sản xuất lương thực bình quân đầu người còn thấp. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn có được một số tiến bộ: cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, giống mới, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ hợp lý và tăng năng suất lao động; từng bước chuyển biến từ nền sản xuất độc canh, phân tán, mang tính tự cung, tự cấp sang hướng chuyên canh, thâm canh, sản xuất hàng hóa; tăng dần cơ giới hóa và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Ngày 12/8/1991, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành trực thuộc Trung ương. Theo đó, chia tỉnh Nghệ Tĩnh thành tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh. Bước sang giai đoạn mới, ngành Nông nghiệp Nghệ An được kế thừa thành quả của giai đoạn đầu đổi mới, tiếp tục phát huy lợi thế. Giai đoạn 1991 – 1995, thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tập trung thâm canh vụ Xuân, mở rộng Hè thu, tăng vụ Đông. Việc ứng dụng các giống lai đã tạo nên bước nhảy vọt về năng suất, sản lượng và góp phần chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa: giống lúa lai có năng suất 7 – 8 tấn/ha giúp tăng sản lượng tăng 15 – 20% so với các giống cũ, Ngô lai năng suất trên 2 tấn/ha tăng 1,5 – 2 lần năng suất các giống cũ, các giống rau và cây ăn quả mới du nhập đã làm phong phú thêm nguồn thực phẩm trên địa bàn tỉnh... Ngành Lâm nghiệp thay đổi dần từ ngành nặng về khai thác tài nguyên rừng trở thành ngành kinh tế mà nhiệm vụ cơ bản là xây dựng vốn rừng, chuyển từ hình thức quảng canh, trình độ thấp sang xây dựng ngành kinh tế tập trung thâm canh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa bắt đầu từ năm 1996, sau 10 năm kiên định con đường đổi mới do Đảng lãnh đạo, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh vận hành theo hướng tích cực, tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng. Giai đoạn 2001 – 2005 thành quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp đã nhìn thấy rõ, giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng bình quân hàng năm 5,3%; mở rộng diện tích trồng mía cùng với sự ra đời của nhà máy đường Nghệ An Tate & Lyle công suất 6.000 tấn/ngày đã ghi dấu ấn lịch sử chế biến công nghiệp tỉnh nhà; cây Chè trở thành cây công nghiệp chủ lực của tỉnh, cuối năm 2000 tỉnh có trên 5.000 ha chè, sản lượng chè khô xuất khẩu năm 2000 đạt 2.500 tấn (cả nước là 46.000 tấn); chăn nuôi liên tục phát triển về cả số lượng và chất lượng, năm 2000 toàn tỉnh có: đàn trâu 265.000 con, đàn bò 268.000 con, đàn lợn 820.000 con, đàn gia cầm khoảng 6,5 triệu con; tăng cường xây dựng công trình thủy lợi kiên cố; ngành Thủy sản tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề cá, tổng sản lượng khai thác hàng năm tăng và tỉnh có 1150 ha diện tích nuôi trồng thủy sản mặn lợ vào năm 2000; tổng diện tích đất lâm nghiệp là 1.195.500 ha. Từ năm 2014, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TƯ ngày 30/7/2013 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Nghệ An đến năm 2020, các chỉ tiêu cơ bản về sản xuất nông nghiệp hoàn thành và vượt kế hoạch, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 4,51% / kế hoạch 4,0 – 4,5%. Đến năm 2015 tiếp tục đạt thành tựu mới với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 4,0 – 4,5% với các chỉ tiêu nổi bật: tổng sản lượng cây lương thực có hạt đạt 1.180.800 tấn (sản lượng lúa đạt 956.800 tấn); tổng trọng lượng thịt hơi xuất chuồng 210.000 tấn. Bước sáng giai đoạn đổi mới 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân 3 năm 2016-2018 đạt 4,73% (cả nước 3,65%). Cơ cấu kinh tế nội ngành có bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng sản xuất lâm nghiệp, thủy sản, chăn nuôi. Nổi bật vào năm 2019 toàn tỉnh có 245 xã đạt chuẩn nông thôn mới chiếm 59,61%, cao hơn bình quân cả nước (50,26%), xây dựng nông thôn mới (NTM) nhanh chóng trở thành phong trào rộng khắp toàn tỉnh. Đến năm 2024, ngành Nông nghiệp đã cơ bản tiệm cận với các chỉ tiêu được xác định trong Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm giai đoạn 2021-2025, một số chỉ tiêu đã đạt và vượt kế hoạch, cụ thể: tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân 04 năm (2021-2024) đạt 4,5% / KH4,5-5,0%; tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 58%; cơ cấu kinh tế nội ngành chuyển dịch đúng hướng: Nông nghiệp trên 76%, (trong đó tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đạt 48,61%), lâm nghiệp 7,07%, ngư nghiệp 16,24%. Tỉnh có 07 doanh nghiệp nông nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận ứng dụng công nghệ cao, 94 hợp tác xã và 84 trang trại có ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất. Tính đến tháng 6/2025, toàn tỉnh có 275/362 (đạt 76%) xã đạt chuẩn Nông thôn mới, 102 xã NTM nâng cao, 16 xã kiểu mẫu, 10 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM và 01 huyện đạt huyện NTM nâng cao (Nam Đàn); Số lượng sản phẩm OCOP đứng thứ 2 cả nước,với 743 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên.
Đồng chí Nguyễn Văn Đệ - Phó chủ tịch UBND tỉnh cùng các đại biểu tham quan các gian hàng trưng bày sản phẩm tại Hội Nghị kết nối sản phẩm OCOP năm 2024
Năm 2025, thực hiện Nghị quyết số 07/NQ-HĐND ngày 25/02/2025 của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An về việc thành lập các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Nghệ An, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hợp nhất với Sở Tài nguyên và Môi trường trở thành Sở Nông nghiệp và Môi trường. Theo đó cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của ngành Nông nghiệp và Môi trường được sắp xếp lại tinh gọn, hợp lý, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Lãnh đạo Sở nông nghiệp và MT kiểm tra mô hình trồng dưa lê Hàn Quốc hữu cơ trong nhà lưới vụ Xuân năm 2025
Một số nhiệm vụ phát triển ngành nông nghiệp đến năm 2030 - Tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp hiện đại, xanh, sạch, sinh thái, từng bước thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua việc ứng dụng các quy trình, công nghệ mới, thông minh, sử dụng hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; giảm phát thải hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững. Thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ số, IoT, blockchain... trong chuỗi giá trị nông nghiệp từ canh tác, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ. Ưu tiên triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ giải quyết vấn đề bức thiết đối với các lĩnh vực: nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái đa lợi ích; chuỗi giá trị các sản phẩm chủ lực; công nghệ sinh học; công nghiệp chế biến; phát huy giá trị thiên nhiên và đa dạng sinh học; mô hình kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh. Tiếp nhận, ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới, công nghệ sinh học vào sản xuất,chọn tạo và phát triển được giống cây trồng, vật nuôi mang tính trạng cải tiến như: chống chịu các sâu bệnh hại chính, thích ứng với biến đổi khí hậu có năng suất, chất lượng vượt trội phục vụ sản xuất nông nghiệp, sinh trưởng nhanh, góp phần bảo vệ môi trường và bảo vệ đa dạng sinh học. - Phát triển hạ tầng số cho các khu nông, lâm nghiệp công nghệ cao có tính kết nối, liên thông; Thu hút đầu tư, phát triển Khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao vùng Bắc Trung Bộ tại tỉnh; Hình thành và phát triển Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại tỉnh Nghệ An. Đồng thời, triển khai xây dựng 3 Đề án trọng tâm: Đề án Khu nông nghiệp công nghệ cao; Đề án Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm sản trọng tâm thuộc hành lang kinh tế đường Hồ Chí Minh, tỉnh Nghệ An đến năm 2030; Đề án phát triển cây trồng vật nuôi chủ lực gắn với chế biến, bảo quản liên kết chuỗi giá trị sản phẩm trên địa bàn tỉnh Nghệ An. - Xây dựng cơ sở dữ liệu, ứng dụng công nghệ số trên tất cả các lĩnh vực: (Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Chăn nuôi và Thú y, Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Thủy sản, Thủy lợi, Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn, Nông thôn mới, Quản lý chất lượng chế biến và phát triển thị trường; Tài nguyên nước và nước sạch, Đất đai, Địa chất và Khoáng sản, Môi trường, không khí, quản lý rác thải...) kết nối với trung tâm điều hành thông minh (IOC) của tỉnh. Hoàn thiện Cơ sở dữ liệu đất đai, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến liên quan đến lĩnh vực đất đai phục vụ người dân, doanh nghiệp; nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công, mở rộng các nhóm thanh toán nhất là các nhóm thanh toán trong lĩnh vực đất đai, khoáng sản, môi trường...; kết nối, chia sẻ dữ liệu đất đai với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo mục tiêu tổng thể của Đề án 06 của Chính phủ.
Lê Thị Tú Oanh - Sở Nông nghiệp và MT - nguồn TSKN