Các mối nguy gây mất an toàn thực phẩm và hậu quả
Mối nguy từ vi khuẩn và virut trong các thực phẩm thường gây các bệnh về đường hô hấp, đường tiêu hóa. Riêng các loại virut có thể gây bệnh bại liệt, viêm gan. Ký sinh trùng gây áp xe gan, phổi, não...Giun gây tắc ruột, chui ống mật hay viêm màng não do ấu trùng giun đũa, viêm loét hành tá tràng do giun móc, teo cơ, cứng khớp và có thể tử vong do nhiễm giun xoắn. Sán gây các bệnh sán lá gan, sán lá phổi và sán lợn trong não.
Mối nguy từ kim loại nặng: như asen, chì, kẽm, thiếc,v.v... tồn dư trong thực phẩm với hàm lượng quá cao sẽ gây tác hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Biểu hiện là ngộ độc mãn tính hoặc cấp tính, tổn thương gan, thận, hệ thần kinh. Tích lũy lâu dài, ảnh hưởng đến thế hệ sau.
Mối nguy từ thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học: Tùy theo loại thuốc mà biểu hiện khác nhau như: Biểu hiện nhức đầu, mất ngủ, giảm trí nhớ, ra mồ hôi, mức độ nặng hơn có thể liệt hoạc tổn thương đến não. Trường hợp này thường do nhiễm độc thủy ngân hữu cơ, lân hữu cơ và clo hữu cơ; Biểu hiện rối loạn nhịp tim, nặng là suy tim, thường là do nhiễm độc lân hữu cơ, clo hữu cơ và nicotin; Biểu hiện viêm đường hô hấp trên, nặng hơn có thể suy hô hấp cấp, ngừng thở. Thường là do nhiễm độc lân hữu cơ và clo hữu cơ; Biểu hiện viêm dạ dày, viêm gan mật, co thắt đường mật. Thường là do nhiễm độc clo hữu cơ, carbamat, thuốc vô cơ chứa Cu, S; Biểu hiện thiếu máu giảm bạch cầu, xuất huyết, thường do nhiễm độc clo, lân hữu cơ carbamat.
Mối nguy từ chất kích thích sinh trưởng tế bào: Dư lượng chất kích thích sinh trưởng đi vào cơ thể rất từ từ, tích tụ lâu ngày sẽ gây rối loạn sinh lý và sinh hoá cơ thể người, cuối cùng là dẫn đến ung thư. Nếu dư lượng quá cao sẽ gây ra ngộ độc thực phẩm, nặng thì bị tử vong. Phụ nữ có thai nếu hít hoặc tiếp xúc qua da lâu dài có thể làm thai sản nhẹ ký, não úng thủy và cơ thể phát sinh ra nhiều dị tật bẩm sinh.
Mối nguy từ Hormon sinh trưởng, các thuốc kháng sinh và hóa chất cấm: Người sử dụng thịt lợn có tồn dư chất tạo nạc, chất tăng trọng (salbutamol và clenbuterol) lâu dần sẽ có nguy cơ bị ảnh hưởng xấu lên tim mạch, làm tim đập nhanh, tăng huyết áp, run cơ rối loạn tiêu hóa nếu nặng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng; Người sử dụng sản phẩm có chứa tồn dư thuốc an thần (combistress) lâu dài có thể bị giãn nở các mạch máu, hạ huyết áp, hô hấp chậm, rối loạn giấc ngủ nhất là đối với người già và trẻ nhỏ”; Các thuốc kháng sinh như: Nitrofurans, Quinoxalinedinoxides, Nitroimidazoles nếu tích lũy do dùng lâu ngày có thể gây suy gan, suy thận thậm chí gây ung thư, đột biến gen.
Việc áp dụng các biện pháp sản xuất trong nông nghiệp không hợp lý: là một trong những nguyên nhân gây nên mất an toàn trong thực phẩm.
* Đối với sản xuất trồng trọt:
Việc tưới sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm, nước chứa phân tưới để tưới hay việc sử dụng phân tươi trong sản xuất rau làm cho sản phẩm rau dễ bị nhiễm virus và các loại ký sinh trùng (giun, sán). Bên cạnh đó, sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm sản xuất rau quả có nguy cơ nhiễm kim loại nặng;
Sử dụng chất kích thích sinh trưởng không đúng thời điểm, liều lượng, đối tượng hay giai đoạn phát triển của cây trồng dẫn đến tình trạng tồn dư hóa chất cao trong nông sản. Đặc biệt, đối với các loại rau quả được phun hoặc ngâm chất kích thích chỉ sau 2 - 3 ngày sẽ phát triển sinh khối nhanh chóng, thân ngọn vươn dài, rau xanh non và bóng mượt. Lợi dụng đặc điểm này, người trồng thường thu hoạch sớm hơn thời gian quy định nhằm tạo ra sản phẩm bắt mắt, dễ tiêu thụ. Điều đáng lo ngại là phần lớn các loại thuốc kích thích sinh trưởng đang được sử dụng phổ biến hiện nay đều có nguồn gốc nhập lậu từ Trung Quốc, được bán tràn lan với giá rẻ, dễ dàng tiếp cận.
Việc sử dụng phân bón hóa học (đặc biệt là phân đạm) và các loại thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục cho phép, hoặc sử dụng không đúng quy định về nồng độ, liều lượng, cũng như không tuân thủ thời gian cách ly cần thiết, là những nguyên nhân dẫn đến tồn dư hóa chất trong thực phẩm.
* Đối với chăn nuôi:
Gia súc, gia cầm được nuôi bằng thức ăn và nguồn nước ô nhiễm kim loại nặng thì thịt thành phẩm cũng khó tránh ô nhiễm kim loại nặng.
Một số hộ chăn nuôi sử dụng thức ăn có chứa các hormon sinh trưởng như chất tạo nạc, chất tăng trưởng như Salbutamol, Clenbuterol và Ractopamine để vật nuôi nhanh lớn, tỷ lệ nạc cao, lợi nhuận lớn. Các chất này được sử dụng điều trị cắt cơn hen ở người nhưng với liều gấp 5- 10 lần sẽ giúp vật nuôi tăng trọng nhanh, do thúc đẩy quá trình phát triển cơ bắp, làm tăng lượng thịt nạc và đẩy nhanh việc phân giải mỡ, làm thịt nạc có màu đỏ. Các chất này vào cơ thể vật nuôi phần lớn tồn dư lâu trong cơ (thịt nạc) và các cơ quan trong cơ thể (gan, thận…), ngay cả khi đã được chế biến ở nhiệt độ cao.
Một số cơ sở trước khi giết mổ gia súc đã tiêm thuốc an thần Combistress với mục đích cho gia súc ngủ li bì để dễ dàng giết mổ. Thuốc này vào cơ thể gia súc tồn tại trong gan, cơ, thận và được bài thải chậm. Như vậy trong thịt động vật sẽ tồn dư một lượng thuốc an thần. Thuốc có thể sử dụng với liều lượng cao và được sử dụng trong khoảng thời gian ngắn dưới 24 giờ nên lượng tồn dư có thể ơ mức rất cao.
Trong chăn nuôi còn lạm dụng các loại thuốc kháng sinh để phòng trị bệnh quá liều lượng, không đảm bảo thời gian cách ly hoặc các loại kháng sinh cấm sử dụng dẫn tới tồn dư kháng sinh trong thực phẩm.
* Đối với nuôi trồng thủy sản:
Các loài thủy sản nuôi trong nguồn nước bị ô nhiễm thường bị nhiễm kim loại nặng và việc sử dụng các thuốc kháng sinh phòng trị bệnh không theo đúng quy định về liều lượng, thời gian cách ly ...hoặc dùng thuốc kháng sinh cấm sử trong nuôi thuỷ sản đã để lại tồn dư chất này trong sản phẩm.
Mội số giải pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất nông nghiệp
* Đối với sản xuất trồng trọt: Cần áp dụng đúng quy trình kỹ thuật của từng loại cây trồng, đặc biệt lưu ý:
Gieo trồng đúng thời vụ giúp cây sinh trưởng khỏe mạnh, ra hoa, kết trái đúng thời điểm, từ đó hạn chế sâu bệnh, giảm chi phí thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời nâng cao năng suất và chất lượng nông sản. Ngược lại, sản xuất trái vụ thường phải sử dụng nhiều chất kích thích sinh trưởng và lượng thuốc bảo vệ thực vật lớn hơn, dễ ảnh hưởng đến chất lượng và an toàn thực phẩm
Trước khi trồng, cần xử lý và cải tạo đất kỹ lưỡng nhằm cải thiện cấu trúc đất, giúp đất tơi xốp, thông thoáng và thoát nước tốt hơn. Việc này còn góp phần nâng cao độ phì nhiêu, tiêu diệt cỏ dại và mầm mống sâu bệnh, đồng thời cân bằng độ pH, tạo môi trường thuận lợi cho các vi sinh vật có lợi hoạt động, hỗ trợ cây trồng sinh trưởng khỏe mạnh, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh và giảm thiểu việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng như phân bón hóa học.
Nguồn nước tưới cho cây cần đảm bảo không bị ô nhiễm. Tuyệt đối không sử dụng phân tươi pha loãng với nước để tưới cây.
Nên tăng cường sử dụng phân hữu cơ. Phân chuồng và các chất thải từ vật nuôi cần được ủ hoai mục kỹ lưỡng trước khi bón, tốt nhất là phối hợp với chế phẩm sinh học Trichoderma để tăng hiệu quả phân giải. Không sử dụng bất kỳ loại phân chưa ủ hoai để tránh gây hại cho cây và môi trường. Phân bón hóa học chỉ nên được sử dụng với liều lượng hợp lý, phù hợp với nhu cầu của từng loại cây trồng, và phải dừng bón ít nhất 15 ngày trước khi thu hoạch.
Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp trong phòng trừ sâu bệnh trên cây trồng như: Chú ý luân canh cây trồng hợp lý, thường xuyên vệ sinh, kiểm tra đồng ruộng và kịp thời có biện pháp quản lý thích hợp đối với sâu, bệnh. Đặc biệt chú ý sử dụng các chế phẩm sinh học hợp lý và chỉ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật khi thật cần thiết nhưng ưu tiên sử dụng các thuốc sinh học, thuốc có hàm lượng hoạt chất thấp, ít độc hại với thiên địch, các động vật khác và con người. Khi sử dụng phải theo nguyên tắc 4 đúng và tuyệt đối không sử dụng loại thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng, không rõ nguồn gốc.
Áp dụng công nghệ bảo quản nông sản sau thu hoạch để giảm thiểu tổn thất và ô nhiễm nông sản do bị nhiễm côn trùng, nấm. Tuyệt đối không sử dụng các loại hóa chất độc hại để bảo quản các sản phẩm sau thu hoạch.
* Đối với chăn nuôi và vệ sinh giết mổ gia súc, gia cầm:
Khu vực chăn nuôi và giết mổ cần được quy hoạch cách xa khu dân cư, trường học, bệnh viện và các khu công nghiệp nhằm hạn chế nguy cơ ô nhiễm và bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Việc lựa chọn con giống cần được thực hiện kỹ lưỡng, ưu tiên những con khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng và được cấp giấy chứng nhận kiểm dịch tại nơi sản xuất.
Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh, chất tăng trọng hay các loại hóa chất bị cấm trong quá trình chăn nuôi. Thay vào đó, nên ưu tiên sử dụng các chế phẩm sinh học thay thế kháng sinh trong thức ăn nhằm hạn chế tồn dư thuốc trong thịt, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Cần tuân thủ nghiêm ngặt hướng dẫn ngừng sử dụng thuốc trước thời điểm giết mổ như quy định ghi trên nhãn sản phẩm.
Toàn bộ quy trình giết mổ và vệ sinh phải được thực hiện đúng theo các quy định pháp luật hiện hành. Đồng thời, cần đảm bảo các điều kiện vệ sinh trong khâu vận chuyển và phân phối sản phẩm. Tuyệt đối không vận chuyển, buôn bán hay tiêu thụ gia súc, gia cầm không rõ nguồn gốc hoặc có dấu hiệu nhiễm bệnh.
* Đối với nuôi trồng thuỷ sản;
Khu vực nuôi phải được quy hoạch hợp pháp, có điều kiện giao thông thuận tiện, được cấp điện lưới ổn định và chủ động về nguồn nước sạch, đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Nguồn nước cần đạt các tiêu chuẩn lý hóa cần thiết, không bị ô nhiễm và phù hợp cho đối tượng nuôi.
Chỉ nên nhập giống từ các cơ sở uy tín, có giấy chứng nhận nguồn gốc và kiểm dịch hợp lệ. Ưu tiên lựa chọn con giống khỏe mạnh, không mang mầm bệnh, đồng đều về kích cỡ và có màu sắc tươi sáng, đặc trưng cho loài.
Trước khi đưa vào sử dụng, nguồn nước cần được xử lý kỹ lưỡng để loại bỏ tác nhân gây bệnh, vi sinh vật và hóa chất độc hại. Nước cấp vào và xả ra môi trường phải được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo vệ sinh và hạn chế lây lan dịch bệnh.
Sử dụng thức ăn sạch, không bị mốc, không pha trộn hóa chất cấm, kháng sinh ngoài danh mục cho phép hoặc hormone tăng trưởng. Thức ăn cần được bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát, đồng thời có biện pháp chống xâm nhập của chuột và côn trùng.
Tuyệt đối không sử dụng thuốc và hóa chất bị cấm hoặc không rõ nguồn gốc trong quá trình nuôi. Việc dùng thuốc phải tuân thủ đúng hướng dẫn, đảm bảo thời gian cách ly theo quy định để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và môi trường.
Sau khi thu hoạch, thủy sản cần được bảo quản đúng cách, không sử dụng hóa chất bảo quản độc hại. Quá trình chế biến phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm để đảm bảo chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Như vậy, Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất nông nghiệp là trách nhiệm của người nông dân và các cơ sở sản xuất thông qua việc áp dụng quy trình sản xuất sạch. Đồng thời, việc này cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong công tác kiểm tra, giám sát, tuyên truyền nâng cao nhận thức, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đây là những giải pháp then chốt nhằm nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và hướng đến phát triển một nền nông nghiệp bền vững./.
Lê Thị Luyến - Trung tâm KN - nguồn TSKN