Xã Mường Nọc nằm ở huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, thuộc khu vực miền núi Tây Bắc của tỉnh. Đây là một trong những xã có nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi gia súc, trong đó chăn nuôi lợn là một hoạt động quan trọng. Mường Nọc có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi lợn, với nguồn thức ăn phong phú từ đồng cỏ, rừng tự nhiên, và các sản phẩm phụ nông nghiệp.
Nhiều hộ dân trong xã đã mạnh dạn mở rộng quy mô chăn nuôi từ một số con lợn ban đầu lên hàng chục con, thậm chí hàng trăm con. Một trong số đó có gia đình chị Phạm Thị Hoài ở bản Thanh Phong, xã Mường Nọc, huyện Quế Phong đã trở thành một trong những điển hình tiêu biểu cho việc phát triển kinh tế hộ gia đình. Với sự chăm chỉ và sáng tạo, chị Hoài không chỉ cải thiện thu nhập cho gia đình mà còn tạo ra động lực cho nhiều hộ dân khác học hỏi và áp dụng. Ngay từ khi bắt đầu nuôi lợn, chị Phạm Thị Hoài gặp không ít khó khăn. Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nguồn thức ăn cho lợn chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp tự sản xuất nên không đủ để duy trì đàn lợn phát triển khỏe mạnh. Hơn nữa, chị cũng phải đối mặt với rủi ro về dịch bệnh, đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đàn lợn của nhiều gia đình trong xã. Tuy nhiên, với quyết tâm và sự kiên trì, chị đã không bỏ cuộc. Chị tìm kiếm các thông tin về kỹ thuật nuôi lợn, tham gia các lớp tập huấn do các cơ quan nông nghiệp tổ chức, và áp dụng các phương pháp khoa học trong việc chăm sóc lợn, phòng ngừa dịch bệnh. Trước khi chuyển sang mô hình chăn nuôi lợn sinh sản và lợn thịt, gia đình chị Hoài chủ yếu nuôi lợn thịt với số lượng ít, cung cấp sản phẩm cho nhu cầu tiêu thụ trong gia đình và một số người quen. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy thị trường tiêu thụ lợn thịt có sự biến động mạnh về giá cả, cộng với sự khan hiếm nguồn giống lợn chất lượng, chị Hoài đã quyết định đầu tư vào mô hình chăn nuôi lợn sinh sản kết hợp nuôi lợn thịt. Mô hình này giúp gia đình chủ động về giống lợn, đồng thời ổn định nguồn cung thịt lợn cho thị trường. Gia đình chị Hoài hiện tại có một đàn lợn sinh sản gồm khoảng 10 nái giống chất lượng cao (lợn lai, lợn Landrace, Yorkshire) và 2-3 con đực giống để phục vụ việc phối giống. Các nái sinh sản được chăm sóc tốt, đảm bảo chế độ dinh dưỡng hợp lý và vệ sinh chuồng trại sạch sẽ. Mỗi năm, một nái giống có thể sinh sản từ 2 đến 2,5 lứa, với mỗi lứa trung bình từ 10 đến 12 con lợn con, mang lại số lượng con giống ổn định cho gia đình. Bên cạnh đó, lợn con được nuôi đến khoảng 2-3 tháng tuổi thì chuyển sang nuôi lợn thịt. Lợn thịt được chăm sóc cho đến khi đạt trọng lượng khoảng 90-100 kg thì xuất chuồng. Mô hình này giúp gia đình chị Hoài có một chuỗi sản xuất khép kín, không chỉ cung cấp thịt lợn mà còn chủ động cung cấp giống cho những người dân khác trong xã có nhu cầu.
Chị Hoài đang chăm sóc đàn lợn thịt
Nhờ vào việc kết hợp nuôi lợn sinh sản và lợn thịt, gia đình chị Hoài không chỉ có nguồn thu ổn định từ việc bán lợn thịt mà còn có thể bán con giống cho các hộ khác. Mỗi năm, gia đình chị xuất bán từ 100 đến 120 con lợn thịt, trừ chi phí gia đình chị thu về từ 120 triệu đến 150 triệu đồng. Bên cạnh đó, từ việc cung cấp giống lợn, chị còn thu được một khoản tiền đáng kể, giúp gia đình ổn định cuộc sống.
Chị Hoài đang chăm sóc lợn sinh sản
Chị Phạm Thị Hoài chia sẻ rằng, để nuôi lợn thịt và lợn sinh sản đạt hiệu quả cao, người nuôi cần có sự kiên trì và áp dụng các phương pháp khoa học trong chăm sóc và nuôi dưỡng. Việc chọn giống tốt, chế độ ăn uống hợp lý, vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tiêm phòng đầy đủ và theo dõi sức khỏe đàn lợn là những yếu tố quan trọng giúp đàn lợn phát triển tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh việc chăn nuôi lợn, gia đình chị Hoài còn kết hợp trồng cây keo để tận dụng đất đồi và tạo nguồn thu nhập bổ sung. Mô hình kết hợp này giúp gia đình ổn định kinh tế hơn, đồng thời phát triển đa dạng các nguồn thu để giảm thiểu rủi ro khi thị trường biến động. Gia đình chị Hoài đã đầu tư trồng khoảng 6 ha keo, một cây trồng phù hợp với khí hậu và điều kiện đất đai của huyện Quế Phong. Mỗi lần thu hoạch trừ các chi phí cho thu nhập khoảng 130 - 150 triệu đồng. Chị Lô Thị Thuý Hà - Chủ tịch Hội phụ nữ xã Mường Nọc đánh giá cao mô hình chăn nuôi lợn của gia đình chị Hoài. Chị Hà cho biết, mô hình này là một ví dụ điển hình về cách phát triển kinh tế hộ gia đình, giúp cải thiện đời sống và tạo động lực cho các chị em trong xã học hỏi và làm theo. Theo chia sẻ của chị Hà, mô hình của chị Hoài không chỉ giúp gia đình ổn định thu nhập mà còn tận dụng hiệu quả tài nguyên đất đai và sức lao động địa phương. Với việc tự túc giống lợn, gia đình chị Hoài giảm được chi phí đầu vào, chủ động hơn trong chăn nuôi, từ đó nâng cao lợi nhuận. Bên cạnh đó, trồng keo là nguồn thu bổ sung lâu dài, giúp gia đình có thêm nguồn vốn để tái đầu tư vào chăn nuôi. Chị Hà cũng cho rằng, sự thành công của mô hình này chính là nhờ vào tinh thần chịu khó học hỏi và áp dụng các kiến thức mới của chị Hoài, cùng với sự hỗ trợ từ Hội Phụ nữ. Hội sẽ tiếp tục khuyến khích và tổ chức các buổi chia sẻ kinh nghiệm, giúp các hộ gia đình khác trong xã học hỏi mô hình của chị Hoài và áp dụng các phương pháp hiệu quả để cải thiện kinh tế gia đình. Mô hình chăn nuôi lợn của gia đình chị Phạm Thị Hoài là một ví dụ điển hình về việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Đây là mô hình có thể nhân rộng, giúp nhiều gia đình khác tại xã Mường Nọc phát triển kinh tế, tạo dựng cuộc sống ấm no và bền vững.
Hồ Thị Hiền - Trung tâm Khuyến nông Nghệ An - nguồn TSKN