Một số giải pháp để phát triển sản xuất trồng trọt hữu cơ tại Nghệ An
Thứ hai - 17/11/2025 14:28110
Đến thời điểm giữa năm 2025, toàn tỉnh Nghệ An có 80,67 ha sản xuất trồng trọt đạt chứng nhận hữu cơ. So với mục tiêu mà Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022-2030 đã đặt ra là đến năm 2030, diện tích đất trồng trọt hữu cơ đạt trên 2% tổng diện tích đất trồng trọt với các loại cây trồng chính: lúa, rau củ quả, mía, lạc, cây ăn quả, chè, dược liệu…, thì kết quả như vậy là khiêm tốn. Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan rằng, phát triển nông nghiệp hữu cơ cả nước nói chung và Nghệ An nói riêng còn có nhiều khó khăn, thách thức.
Khoá tập huấn sản xuất rau theo tiêu chuẩn hữu cơ cho cán bộ khuyến nông và nông dân sản xuất giỏi năm 2025
Khó khăn trong sản xuất trồng trọt hữu cơ tại Nghệ An Năm 2022, Trung tâm Khuyến nông Nghệ An đã triển khai Dự án “Xây dựng mô hình mẫu sản xuất chè hữu cơ, liên kết theo chuỗi giá trị tại Nghệ An giai đoạn 2022 - 2024” với quy mô 10 ha với sự tham gia của 10 hộ dân tại xã Bình Sơn, huyện Anh Sơn. Từ tháng 5/2021 đến tháng 12/2023, Trung tâm Khuyến nông Nghệ An cũng đã phối hợp với Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc triển khai dự án “Xây dựng mô hình thâm canh chè theo hướng hữu cơ, liên kết theo chuỗi giá trị tại một số tỉnh Phía Bắc” với quy mô 8 ha, 35 hộ tham gia, tại 2 bản Huồi Khả và Huổi Khe xã Huồi Tụ, huyện Kỳ Sơn đối tượng là cây chè Shan tuyết. Qua quá trình thực hiện, cho thấy thực tế sản xuất trồng trọt hữu cơ có những khó khăn sau: Thứ nhất: Sản xuất trồng trọt hữu cơ theo tiêu chuẩn TCVN 11041-2:2017 rất phức tạp. Từ việc lựa chọn vùng sản xuất đủ điều kiện, trong đó phải có vùng đệm, quản lý được các mối nguy từ bên ngoài nhất là mối nguy từ nguồn nước; phải có thời gian chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ; quản lý hệ sinh thái và đa dạng sinh học; quản lý đất, nước, phân bón, vi sinh vật gây hại… cho đến ghi chép, lưu giữ hồ sơ, truy xuất nguồn gốc và thu hồi sản phẩm. Những yêu cầu đó là khó khăn rất lớn đối với người sản xuất, nhất là bà con nông dân, những người quen với sản xuất truyền thống, không quen với ghi chép sổ sách. Thứ hai: Quy mô sản xuất của tỉnh còn nhỏ lẻ, địa hình phức tạp, sản xuất chủ yếu quy mô hộ gia đình nên khó khăn trong việc gom diện tích, lập đội, nhóm sản xuất hữu cơ, khó cho triển khai đồng đều các yêu cầu của tiêu chuẩn hữu cơ đối với từng hộ. Thứ ba: Hiện tại, trên địa bàn toàn tỉnh chưa có vùng quy hoạch sản xuất trồng trọt hữu cơ, cơ sở hạ tầng như điện nước, thuỷ lợi, xử lý nguồn chất thải… chưa hoàn chỉnh, gây khó khăn cho sản xuất trồng trọt hữu cơ. Thứ tư: Nguồn nhân lực sản xuất trồng trọt hữu cơ thiếu, bà con nông dân quen với canh tác truyền thống, sử dụng nhiều phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật. Còn ít người được đào tạo, tiếp cận và ứng dụng sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ. Thứ năm: Giá thành sản phẩm trồng trọt hữu cơ cao do chi phí lớn, số ngày công lao động cao, năng suất giảm so với sản xuất thông thường nên khó tiêu thụ. Thứ sáu: Thị trường tiêu thụ sản phẩm trồng trọt hữu cơ còn nhỏ hẹp, người tiêu dùng chưa mặn mà, tin tưởng vào sản phẩm hữu cơ. Thứ bảy: Biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, thời tiết cực đoan tần suất xuất hiện ngày càng nhiều ảnh hưởng đến quá trình chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh. Nhất là mưa lụt sẽ gây ngập úng làm cho vùng sản xuất hữu cơ bị xoá sổ. Một số giải pháp để phát triển sản xuất trồng trọt hữu cơ tại Nghệ An Để hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ, ngoài các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Trung ương, tỉnh Nghệ An cũng đã lồng ghép vào các chương trình, kế hoạch, dự án để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Ngoài ra, tại Nghị quyết số 18/2021/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022-2025. Tuy nhiên, để phát triển sản xuất trồng trọt hữu cơ, cần có các giải pháp đồng bộ gắn với thực tế của sản xuất và thực hiện có hiệu quả. Thứ nhất: Sản xuất trồng trọt hữu cơ theo tiêu chuẩn TCVN 11041-2:2017 rất phức tạp. Vì vậy cần phải đào tạo, tập huấn, cầm tay chỉ việc cho người sản xuất và bà con nông dân nhằm nâng cao hiểu biết, kiến thức, tay nghề và thói quen ghi chép sổ sách, lưu trữ hồ sơ. Việc này cần phải thực hiện thời gian dài, thường xuyên và liên tục. Đặc biệt cần phải gắn tập huấn tại hiện trường (FFS) với mô hình sản xuất hữu cơ. Thứ hai: Cần phải quy hoạch vùng sản xuất hữu cơ gắn với dồn điền đổi thửa cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng điện, đường, thuỷ lợi, nguồn nước, khu xử lý chất thải … Đặc biệt cần chú ý đến hạn chế ảnh hưởng của lũ lụt. Thứ ba: Có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích sản xuất trồng trọt hữu cơ, ngoài hỗ trợ giống, vật tư, thiết bị, hỗ trợ chứng nhận thì cần hỗ trợ giá cho sản phẩm, để sản xuất hữu cơ được duy trì liên tục. Thứ tư: Tăng cường áp dụng máy móc, thiết bị phục vụ cho chế biến, bảo quản và ứng dụng công nghệ số như: IoT và cảm biến, trí tuệ nhân tạo (AI), máy bay không người lái (drone), robot, blockchain... Các công nghệ này giúp tự động hóa, tối ưu hóa quy trình, theo dõi sức khỏe cây trồng và vật nuôi, dự báo xu hướng thị trường và nâng cao năng suất. Thứ năm: Hỗ trợ xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm, giúp nông dân kết nối và tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước để sản phẩm hữu cơ có giá trị cao, đem lại hiệu quả kinh tế cho người sản xuất. Sản xuất trồng trọt hữu cơ nói riêng và nông nghiệp hữu cơ nói chung không chỉ tính đến lợi ích kinh tế mà còn là vì lợi ích cho thế hệ tương lai, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái tự nhiên. Vì vậy, nông nghiệp hữu cơ được coi là giải pháp quan trọng để phát triển nông nghiệp xanh, sạch và bền vững./.
Nguyễn Hồng Giang – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông - nguồn TSKN