Nuôi trồng thủy sản Nghệ An: Vượt qua khó khăn để về đích
Thứ năm - 04/02/2021 03:192.3040
Năm 2020, Nuôi trồng Thuỷ sản (NTTS) Nghệ an đứng trước những khó khăn: Thời tiết diễn biến phức tạp dẫn đến bệnh trên đối tượng nuôi vẫn thường xuyên xảy ra. Đặc biệt, vào tháng 10, 11 mưa bão diễn ra gây thiệt hại một số vùng nuôi. Sản xuất tôm giống không thuận lợi do giá bán xuống thấp, thị trường tiêu thụ khó khăn.
Giá bán thủy sản thương phẩm ở mức thấp, tiêu thụ khó khăn, đặc biệt là tôm mặn lợ nguyên nhân là do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID - 19.Nuôi ngao bãi triều gặp khó khăn trong công tác thuê khoán mặt nước nuôi. Khắc phục những khó khan đó NTTS sản Nghệ an đã vượt khó để về đích, một số chỉ tiêu kế hoạch thực hiện năm 2020 đều đạt và vượt so với cùng kỳ. Diện tích đạt 21.476 ha 102,27% KH và bằng 100,35% so cùng kỳ năm 2019.Trong đó nuôi ngọt đạt: 18.984 ha, nuôi mặn lợ đạt 2.492 ha (tôm 2.234 ha). Sản lượng đạt 57.980 tấn bằng 101,72% KH và bằng 104,90% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: nuôi ngọt đạt: 45.657 tấn, nuôi mặn lợ đạt 12.323 tấn (tôm ước 7.896 tấn). Sản xuất tôm giống đạt 2.109 triệu con bằng 93,61% so cùng kỳ năm 2019, trong đó: Tôm Sú đạt 211 triệu con, tôm Thẻ chân trắng đạt 1.898 triệu con. Sản xuất cá giống nước ngọt đạt 705 triệu con bằng 100,00 %. Theo báo cáo của Phòng NTTS Chi cục Thuỷ sản Nghệ An. Đối với nuôi tôm thương phẩm Năm nay cơ bản người dân tuân thủ đúng lịch mùa vụ của ngành thông báo. Nguồn giống chủ yếu từ các Công ty Việt Úc, CP, Hải Tuấn, Nam Miền Trung, Vina, Việt Mỹ, Thông Thuận...; Công nghệ nuôi chủ yếu theo hình thức nuôi thâm canh trong ao lót bạt, bể xi măng, lồng nổi với mật độ nuôi giao động từ 90-150 con/m2 và một số hộ cơ sở hạ tầng và quản lý tốt thả 200-300 con/m2. Nhìn chung, nuôi tôm thương phẩm năm nay tỷ lệ bệnh thấp hơn so với mọi năm nhưng hiệu quả sản xuất đạt không cao, nguyên nhân là do tôm năm nay sinh trưởng, phát triển chậm thời gian nuôi kéo dài, chủ yếu thu hoạch kích cỡ nhỏ, trong khi giá bán lại giảm thấp đã ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả cũng như tâm lý của người sản xuất. Tuy nhiên bên cạnh đó, với sự chủ động của người nuôi trong việc áp dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến nên có một số mô hình đạt năng suất cao 15 - 20 tấn/ha, tôm kích cỡ lớn từ 30 - 50 con/kg, lợi nhuận từ 700 - 1.000 triệu đồng/ha. Sản lượng thu hoạch ước đạt 7.896 tấn bằng 105,53% so cùng kỳ năm 2019. Xuất hiện một số mô hình đạt hiệu quả cao như: Hộ Ông Hồ Long, Xã Quỳnh Bảng diện tích 0,55 ha/02 ao, nguồn gốc giống Công ty CP, thu hoạch 8,8 tấn, sản lượng 16 tấn/ha, tôm kích cỡ 46-51 con, giá bán từ 160.000-175.000 đồng, doanh thu đạt 1.400 triệu đồng; Anh Bình Xã Diễn Trung - Diễn Châu với diện tích 3.000m3/6lồng nuôi, nguồn gốc giống Công ty CP, thu hoạch 14 tấn, kích cỡ thu hoạch chủ yếu 40 con, giá bán từ 170.000 đồng/kg, thời gian nuôi 5 tháng, sau khi trừ chi phí lợi nhuận đạt 600 triệu đồng; Lê Minh Thắng với diện tích nuôi 1,2 ha, năng suất 19 tấn/ha, sản lượng 23 tấn, giá bán 140.000 đồng/kg, doanh thu 3,22 tỷ đồng, lợi nhuận 1,12 tỷ đồng; ông Vũ Xuân Diễn Xã Mai Hùng với diện tích nuôi 1 ha, mật độ 150 con/m2, năng suất 15 tấn/ha, sản lượng 15 tấn, giá bán 220.000 đồng/kg, doanh thu 3,3 tỷ đồng, lợi nhuận 1,98 tỷ đồng… Thị trường tiêu thụ: Do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID - 19, thị trường Trung Quốc tạm dừng nhập khẩu, người dân thực hiện giãn cách xã hội nên tiêu thụ nội địa cũng giảm mạnh đã khiến giá tôm thương phẩm giảm, chính vụ tôm 100 con/kg giá bán dao động từ 75.000 - 110.000 đồng/kg, giảm 20.000 - 30.000 đồng/kg so với năm trước, 40 con/kg giá bán 170.000 đồng/kg (giảm 50.000 đồng/kg so với năm trước). Nuôi Ngao bãi triều: Thị trường tiêu thụ ngao bãi triều hiện nay thuận lợi hơn so cùng kỳ năm 2019, giá bán 15.000 đồng/kg. Thị trường tiêu thụ nội địa và Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Nuôi ốc hương: Hiện nay trên địa bàn một số hộ nuôi đã chuyển các diện tích nuôi tôm kém hiệu quả sang nuôi ốc Hương cho hiệu quả kinh tế cao như: Mạch Duy Hoằng với diện tích 4 ha, mật độ nuôi 150 con/m2, năng suất 6 tấn/ha, sản lượng 24 tấn, giá bán 220.000 đồng/kg doanh thu 5,28 tỷ, lợi nhuận 2,1 tỷ đồng. Nuôi Cá, cua mặn, lợ: Các đối tượng nuôi cua, cá phát triển tốt, nhiều hộ nuôi đã tiến hành thu hoạch những con đạt kích cỡ thương phẩm đối với cá cỡ 1 kg/con giá bán 90.000 đ/kg tương đương so với năm trước; đối với cua cỡ 0,35 kg/con giá bán 450.000 đ/kg tăng 40.000 - 50.000 đ/kg so năm 2019. Thị trường tiêu thụ trong và ngoài tỉnh. Xuất hiện một số mô hình điển hình: Hộ nuôi Võ Duy Pao - xã Quỳnh Lộc nuôi cá mú với diện tích nuôi 0,6 ha, năng suất 15 tấn/ha, sản lượng 9 tấn, giá bán 150.000 đồng/kg, doanh thu 1,35 tỷ đồng, lợi nhuận 0,45 tỷ đồng. Nuôi cá nước ngọt trong ao hồ nhỏ Đối tượng nuôi chủ yếu là các loài cá nuôi truyền thống: cá Mè, Trắm, Trôi, Chép,… Hiện nay một số địa phương đang phát triển nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao cho kết quả tốt như: nuôi cá Lăng, Leo, Lóc, Ba Ba, Ếch , Lươn, Cua đồng, Tôm Càng Xanh, Ốc nhồi, Cua đồng… hình thức nuôi quảng canh cải tiến, chủ yếu sử dụng phụ phẩm từ nông nghiệp của hộ gia đình nên năng suất vẫn chưa cao. Còn các đối tượng có giá trị kinh tế cao người dân đã quan tâm đầu tư nuôi theo hình thức BTC&TC, cũng đã nổi lên một số mô hình điển hình như: Hộ nuôi Nguyễn Đức Hoài – Xóm 9 Diễn Yên Diễn Châu với diện tích nuôi 9 ha cá Rô phi, năng suất 30 tấn/ha, sản lượng 180 tấn, giá bán 30.000 đồng/kg, doanh thu đạt 5,4 tỷ đồng, lợi nhuận 1,3 tỷ đồng; Dương Văn Tiến - Xóm 10 Diễn Yên, với diện tích nuôi 1,7 ha, năng suất 30 tấn, sản lượng 51 tấn, giá bán 30.000 đồng/kg, doanh thu 1,53 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 0,52 tỷ, ông Trần Qúy Bảo Huyện Yên Thành nuôi ốc bươu với diện tích 2 ha, năng suất 4 tấn/ha, sản lượng 8 tấn, giá bán 90.000 đồng/kg, doanh thu 0,72 tỷ đồng; ông Nguyễn Đức Cảnh - Tây Hiếu, Thị xã Thái Hòa nuôi lươn trong bể với diện tích 100 m2, mật độ 150 con/m2, sản lượng 2,85 tấn, giá bán 180.000 đồng/kg, doanh thu 0,513 tỷ đồng, lợi nhuận 0,2 tỷ đồng. Về nuôi cá lồng trên sông, hồ đập mặt nước lớn có bước phát triển mạnh từ đối tượng nuôi đến công nghệ nuôi: Nhìn chung, việc ứng dụng công nghệ vào nuôi cá lồng trên sông, hồ đập mặt nước có những bước tiến triển tốt trước đây lồng nuôi chủ yếu là lồng truyền thống thì đến nay có khoảng trên 80% số lồng nuôi cải tiến (khung lồng bằng gỗ, nhựa PE, ống típ sắt và lưới), thể tích lồng nuôi tăng lên. Nhìn chung các lồng nuôi phát triển mới trong năm đều đầu tư lắp đặt theo công nghệ cải tiến, kích cỡ từ 50 - 100 m3 trở lên. Với sự quan tâm đầu tư của người dân và chính sách hỗ trợ của UBND tỉnh về xây dựng lồng mới, số lượng lồng tăng lên đáng kể, tập trung tại một số huyện như Quế Phong, Tương Dương, Anh Sơn, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con Cuông. Số lượng lồng đưa vào nuôi trong năm 2020 đạt 1.217 lồng nuôi, tăng 270 lồng so năm 2019. Đáng chú ý đối tượng nuôi trước đây chủ yếu là cá truyền thống thì hiện nay đã phát triển nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao khoảng 50% như cá Lăng, Leo, cá Chép giòn, Trắm giòn... cho hiệu quả cao. Phát huy những kết quả đạt được, NTTS Nghệ an đã đặt ra một số chỉ tiêu kế hoạch cho năm 2021: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 21.420 ha, trong đó diện tích nuôi ngọt 18.870 ha; nuôi mặn lợ 2.550 ha (tôm 2.280); Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 59.000 tấn, trong đó: Sản lượng nuôi ngọt đạt 46.500 tấn, Sản lượng nuôi mặn, lợ đạt 12.500 tấn (trong đó tôm đạt 7.800 tấn); Sản xuất giống: Sản xuất, ương dưỡng tôm giống 2.200 triệu con; Sản xuất cá giống các loại đạt 705 triệu con. Để đạt được mục tiêu trên, trao đổi với chúng tôi, ông Trần Xuân Quang, Trưởng Phòng NTTS, Chi cục Thuỷ sản Nghệ An cho biết Cần khuyến khích các tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực, đầu tư trang thiết bị và ứng dụng chuyển giao các công nghệ cao trong sản xuất giống, nhằm sản xuất các đối tượng có giá trị kinh tế cao, tăng trưởng nhanh, sạch bệnh và sức chống chịu tốt; Tuyên truyền và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sản xuất, ương dưỡng giống chấp hành các quy định Nhà nước và trước khi bước vào vụ sản xuất tiến hành cải tạo vệ sinh trại đảm bảo theo đúng quy trình kỹ thuật; Tổ chức kiểm tra điều kiện và duy trì điều kiện các cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản trên trên địa bàn tỉnh. Tập trung chỉ đạo các tổ chức, cá nhân sản xuất, ương dưỡng đủ số lượng giống đảm bảo chất lượng theo đúng mùa vụ nuôi; Tăng cường quản lý, kiểm tra chất lượng giống thủy sản trong sản xuất, ương dưỡng và lưu thông trên địa bàn tỉnh; Quản lý thời gian sử dụng giống thủy sản bố mẹ đúng theo quy định; Thực hiện việc giám sát xuất khẩu, nhập khẩu, khảo nghiệm, kiểm định giống thủy sản, theo quy định của pháp luật. Mặt khác cầnchỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện tốt Kế hoạch hành động phát triển ngành tôm tỉnh Nghệ An đến năm 2025 và Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản đặc sản nội địa trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2020 -2025; Đẩy mạnh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, Quy chuẩn, Tiêu chuẩn để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường. Không sử dụng kháng sinh, hạn chế hoá chất ở tất cả các phương thức nuôi và các khâu trong chuỗi sản xuất, lưu thông sản phẩm; Tập trung hướng dẫn các địa phương chỉ đạo các cá nhân/tổ chức có liên quan thực hiện đăng ký nuôi trồng thủy sản lồng bè, đối tượng thủy sản nuôi chủ lực; Đẩy mạnh công tác kiểm tra chất lượng thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản trong sản xuất, lưu thông trên địa bàn tỉnh; Kiểm tra điều kiện các cơ cở mua bán và nhập khẩu thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; Phối hợp với các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm về hoạt động sản xuất, mua bán thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; Thực hiện việc giám sát nhập khẩu, khảo nghiêm thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý mối trường nuôi trồng thủy sản trên địa bàn theo quy định; Chủ trì và phối hợp với các đơn vị Tổng cục Thủy sản thực hiện hoạt động quan trắc cảnh báo môi trường tại các vùng nuôi trọng điểm. Kết quả kiểm tra thông báo kịp thời đến các vùng nuôi, các hộ nuôi trồng trên địa bàn tỉnh để có biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn nước đưa vào sản xuất nhằm hạn chế dịch bệnh lây lan.
ảnh: Thu hoạch tôm thẻ hộ ông Nguyễn Hữu Hành, xã Quỳnh lập, TX Hoàng mai Nguyễn Hải - nguồn TSKN